Phát Triển Bền Vững Là Gì Vai Trò Của Sinh Học Trong Phát Triển Bền Vững
Khi dân số đô thị tăng lên, các thành phố phải đối mặt với áp lực tìm kiếm các giải pháp bền vững. Nhu cầu này chưa bao giờ cấp thiết hơn trên toàn thế giới. Kẹt xe, nghèo đói, tội phạm và bầu không khí ô nhiễm là những nhân tố đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân đô thị, điều này dẫn đến nhu cầu cấp thiết phải xây dựng các thành phố thông minh và phát triển đô thị bền vững.
Du lịch bền vững khác với du lịch đại chúng như thế nào?
Du lịch đại chúng thường chỉ hướng đến mục tiêu duy nhất là lợi nhuận của bên tổ chức, không có mục tiêu cho việc nâng cao công tác bảo tồn hoặc mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương và có thể phá huỷ nhanh chóng các môi trường nhạy cảm. Ví dụ, với những vùng biển cần được bảo tồn, thì các hoạt động du lịch đại chúng tại đó có thể mang đến những tác động xấu do việc thiếu kế hoạch và quản lý hiệu quả. Khai thác nhiều năm có thể phá huỷ hoặc làm thay đổi một cách không thể nhận ra được các nguồn lợi và văn hoá mà chính những chuyến du lịch đại chúng này phụ thuộc vào. Du lịch đại chúng không cung cấp nguồn quỹ tài trợ cho cả các chương trình bảo tồn lẫn cộng đồng địa phương bảo vệ vùng tránh khỏi những hoạt động và phát triển mà có thể gây hại đến cảnh đẹp tự nhiên của vùng. Những cơ hội và các đe doạ tác động tới môi trường và văn hóa xã hội có thể chỉ được điều khiển thông qua các kế hoạch được lập ra và quản lý cẩn thận của du lịch bền vững.
Du lịch bền vững thì được lập kế hoạch đa mục đích: lợi tức, môi trường và cộng đồng ngay từ khi bắt đầu, nhằm mang lại những lợi ích cho cộng đồng địa phương, tôn trọng văn hoá, bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, hướng dẫn du khách và cả cộng đồng địa phương. Trong kế hoạch này thường có sự tham gia của các bên liên quan, hướng tới địa phương nơi du khách sẽ tới. Các bên liên quan bao gồm các thành viên cộng đồng địa phương, chính quyền, tổ chức phi chính phủ cũng như ngành du lịch, du khách và nhiều nhóm khác. Tất cả cần phối hợp để tạo ra các tổ chức kinh doanh về du lịch bền vững nhằm đem lại các lợi ích địa phương và khả thi về mặt kinh tế. Đặc biệt các nguồn lợi tự nhiên, các giá trị văn hoá của vùng sẽ được bảo vệ để giảm thiểu các tác động xấu của du lịch, đồng thời còn đóng góp vào công tác bảo tồn và sức khoẻ của cộng đồng về cả mặt kinh tế và xã hội.
Du lịch có mối quan hệ đặc biệt, hai chiều với môi trường. Chất lượng của môi trường là yếu tố cần thiết cho sự thành công của du lịch, vì đây thường là yếu tố thu hút mọi người đến thăm một địa điểm và thuyết phục họ quay trở lại. Do đó, nguyên tắc của du lịch bền vững là giảm thiểu các tác động đến môi trường (động thực vật, các sinh cảnh sống, nguồn lợi sống, sử dụng năng lượng và ô nhiễm,…) đồng thời có những tác động góp phần làm tăng tính đa dạng sinh học, bảo tồn cảnh quan,… thông qua việc quản lý vùng, bảo tồn và nâng cấp di sản, giảm ô nhiễm do rác thải, tăng cường nghiên cứu giải pháp khoa học để bảo vệ môi trường.
Tại châu Âu, nơi du lịch là ngành kinh tế lớn thứ ba với uớc tính số lao động là 17 triệu người và đóng góp gần 10% tổng sản phẩm quốc nội của EU thì cơ quan Môi trường Châu Âu đã tiến hành xây dựng cơ chế báo cáo về mối quan hệ du lịch và môi trường, với hệ thống chỉ số du lịch Châu Âu về quản lý điểm đến bền vững (ETIS), được phát triển như một phần hành động của EU thúc đẩy du lịch bền vững.
Theo Báo cáo Năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu năm 2017, nhiều chỉ số liên quan đến môi trường của Việt Nam đạt mức thấp như mức độ bền vững về môi trường xếp hạng 129/136, mức độ chất thải hạng 128/136, tình trạng phá rừng hạng 103/136, hạn chế về xử lý nước thải hạng 107/136,…)(1). Hiện tại 2021, Việt Nam đang triển khai nhiều mô hình, sáng kiến nhằm nâng cao nhận thức về công tác bảo vệ môi trường trong hoạt động du lịch. Trong đó, bước đổi mới quan trọng là gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương trong cải thiện môi trường du lịch; xây dựng chương trình tuyên truyền, giáo dục văn hóa ứng xử của cộng đồng dân cư đối với khách du lịch và bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch; ứng dụng công nghệ xanh, công nghệ sạch trong các khách sạn, khu du lịch.
Điển hình có thể kể đến vùng biển Cù Lao Chàm, xã Tân Hiệp, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Với diện tích khoảng 15 km2, Cù Lao Chàm không chỉ là nơi bảo tồn nhiều loài động thực vật quý hiếm, mà còn là một di tích văn hóa lịch sử gắn với sự phát triển của thương cảng Hội An trước đây. Sau 10 năm bảo tồn và phát triển, hệ sinh thái của khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm được phục hồi tương đối nguyên vẹn và trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ du lịch Quảng Nam và khu vực miền Trung nước ta. Năm 2019 đã đánh dấu mốc 10 năm kể từ ngày Cù Lao Chàm chính thức được UNESCO công nhận là Khu dự trữ sinh quyển Thế giới.
Trụ cột phát triển du lịch bền vững
Nguyên tắc phát triển bền vững trong du lịch thiết lập sự cân bằng phù hợp giữa các khía cạnh môi trường, kinh tế và văn hóa xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học. Trong quá trình vận hành, tính bền vững thể hiện ở khía cạnh hướng tới giảm thiểu tác động đối với môi trường và văn hóa địa phương, đồng thời góp phần tạo ra thu nhập, việc làm và bảo tồn các hệ sinh thái tại đó.
Đồng thời, du lịch bền vững cung cấp các động lực kinh tế quan trọng để bảo vệ môi trường sống. Nguồn thu từ du khách thường được chuyển trở lại các chương trình bảo tồn thiên nhiên hoặc nâng cao năng lực cho cộng đồng địa phương để quản lý các khu bảo tồn. Hơn nữa, du lịch có thể là một phương tiện quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và thúc đẩy thay đổi hành vi tích cực đối với việc bảo tồn đa dạng sinh học trong số hàng triệu người đi du lịch trên toàn cầu mỗi năm. Tuy nhiên, xây dựng ngành du lịch bền vững vẫn đang là mục tiêu của nhiều quốc gia, đặc biệt tại các nước đang phát triển nơi mà cấp độ hiện tại chủ yếu là du lịch đại chúng.
Bảo tồn và nâng cao giá trị văn hoá – xã hội
Du lịch bền vững không gây tổn hại đến các cấu trúc xã hội hoặc văn hoá của cộng đồng mà là chất xúc tác nâng cao giá trị văn hoá và truyền thống địa phương. Du lịch bền vững khuyến khích các bên liên quan (các cá nhân, cộng đồng, công ty du lịch, và quản lý chính quyền) tham gia trong tất cả các giai đoạn của việc lập kế hoạch, phát triển và giám sát, giáo dục các bên liên quan về vai trò của họ. Sự tham gia đầy đủ sẽ đảm bảo việc phân bố lợi ích và chi phí du lịch công bằng với mỗi bên.
Hoạt động du lịch phát triển kéo theo sự mở rộng giao lưu kinh tế văn hoá giữa các vùng, miền và với quốc tế, góp phần giáo dục truyền thống, đào tạo kiến thức và rèn luyện, bồi dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư.
Bài đọc nhiều nhất Digital Strategy 12/12/2024
Kinh doanh du lịch giúp tạo ra các nguồn kinh phí để bảo tồn, nâng cao giá trị và khôi phục các di sản kiến trúc, nghệ thuật, vật thể và phi vật thể, văn hóa, thủ công mỹ nghệ, trang phục, phong tục truyền thống,… Tuy nhiên, có nhiều thách thức trong việc gìn giữ các di sản. Ví dụ : văn hóa đặc đặc sắc của các dân tộc thiểu số dễ bị biến đổi do tiếp xúc với các nền văn hóa xa lạ, do xu hướng thị trường hóa các hoạt động văn hóa, do mâu thuẫn nảy sinh khi phát triển du lịch hoặc do tương phản về lối sống. Hay các di sản văn hóa, lịch sử, khảo cổ thường được xây dựng bằng các vật liệu đất nung như di tích Mỹ Sơn – Quảng Nam khó bảo tồn nguyên vẹn do tác động của khí hậu nhiệt đới gió mùa ở Việt Nam. Do đó, nhu cầu bảo tồn di sản bền vững ngày càng cấp thiết hơn.
Du lịch bền vững đóng góp về mặt kinh tế cho cộng đồng và tạo ra số lượng lớn công ăn việc làm ổn định cho địa phương cũng như rất nhiều các bên liên quan. Việc thực hiện kinh doanh du lịch đa dạng sẽ không được phép phá huỷ các nguồn lợi tự nhiên, văn hoá và kinh tế mà có thể tăng cường việc bảo tồn nguồn lợi tự nhiên, đánh giá cao giá trị văn hoá và mang lợi tức đến cho cộng đồng cũng như cho chính các doanh nghiệp tổ chức.
Có thể thấy phát triển du lịch bền vững mang lại nhiều lợi ích lớn như góp phần tăng trưởng kinh tế (chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất khẩu tại chỗ); tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận cộng đồng dân cư địa phương; góp phần cải thiện điều kiện về hạ tầng và dịch vụ xã hội cho địa phương (y tế, thông tin, vui chơi giải trí), …
Hình dưới đây cho thấy ngành du lịch tại 10 quốc gia có tỷ lệ đóng góp vào GDP cao nhất năm 2019, lên tới gần 10 % đối với Mỹ và hơn 8% với% với Trung Quốc – những nước hàng đầu trong phát triển du lịch bền vững.(2)
Tỷ lệ đóng góp trực tiếp của du lịch vào GDP của Việt Nam cũng ngày càng tăng, từ 6,3% năm 2015 lên 9,2% vào 2019.(1)
Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng của ngành du lịch trong khu vực dịch vụ. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Huế (Thừa Thiên-Huế), Đà Nẵng, Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Phan Thiết), khu vực đồng bằng sông Cửu Long và nhiều địa phương khác. Các ngành thương mại, nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, viễn thông… nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm động lực phát triển, góp phần thay đổi diện mạo của nền kinh tế – xã hội Việt Nam.
Tóm lại, du lịch bền vững là một quá trình liên tục đòi hỏi phải theo dõi liên tục các tác động của nó, nhằm đáp ứng hài hòa cả 3 tiêu chí :
Nguồn tham khảo: (1) Vietnamtourism. 2020 Tốc độ tăng trưởng khách cao, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội (2) Visualcapitalist. 2020 Visualizing the Countries Most Reliant on Tourism (3) Booking.com Báo cáo Thường niên về Du lịch Bền vững
Từ khi thành lập đến nay, Saigontourist luôn thể hiện truyền thống tiên phong xây dựng và phát triển sản phẩm, dịch vụ độc đáo, tạo ra sự khác biệt để thu hút và giữ chân khách hàng. Chúng tôi chú trọng sáng tạo các giá trị gia tăng, tạo điểm nhấn trong từng sản phẩm, dịch vụ, tạo sự thích thú và định vị thương hiệu trong tâm trí khách hàng.
Trải qua biến động do đại dịch Covid-19 cùng với xu hướng tiêu dùng đề cao các sản phẩm không chỉ tốt cho sức khỏe, mà còn mang tính xanh, bền vững, các doanh nghiệp đồ uống tại Việt Nam, bao gồm SABECO liên tục chuyển mình bắt kịp xu hướng mới đó.
Dự án “Thắp sáng đường quê” do SABECO tài trợ lắp đặt đèn năng lượng mặt trời tại 34 vùng nông thôn
Bốn trụ cột trong mô hình hướng đến phát triển bền vững
Tại Hội thảo Phát triển bền vững 2023 với chủ đề: “Trách nhiệm của chúng ta - Hành động của chúng ta” do Báo Đầu tư - Vietnam Investment Review tổ chức, bà Đinh Nguyễn Thị Hường, Giám đốc Ban Truyền thông doanh nghiệp, Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) chia sẻ cam kết của SABECO về hoạt động phát triển bền vững.
Với tầm nhìn sứ mệnh của SABECO là "Phát triển SABECO trở thành một tập đoàn hàng đầu trong ngành, không chỉ tại Việt Nam, mà còn khẳng định vị thế ở khu vực và thế giới", SABECO cam kết thực hiện những nguyên tắc và hướng đến phát triển bền vững dựa trên 4 trụ cột gồm: Consumption (Tiêu thụ) - Conservation (Bảo tồn) - Country (Đất nước) - Culture (Văn hóa).
Mô hình 4C này được phát triển với 4 yếu tố chính là khuyến khích người tiêu dùng tiêu thụ bia có trách nhiệm; hoạt động kinh doanh và sản xuất với nguyên tắc bảo tồn và bảo vệ môi trường; đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam.
Bà Hường chia sẻ: “Trong nhiều năm, chúng tôi xây dựng cam kết phát triển bền vững dựa trên một ngôi nhà. Cam kết của chúng tôi là đem lại những điều tốt đẹp nhất cho Việt Nam thông qua những hành động cụ thể nhất, thiết thực nhất và đóng góp cho sự phát triển mạnh mẽ của Việt Nam. Để thực hiện những cam kết đem lại những gì tốt đẹp nhất cho Việt Nam, chúng tôi xây dựng 4 The Best.
Thứ nhất là The Best Beer. Thương hiệu bia Saigon cam kết mang đến cho người tiêu dùng phong vị bia của người Việt. Với hệ thống 26 nhà máy trên toàn quốc, SABECO luôn chú trọng đến sự đồng nhất về chất lượng sản phẩm. Các nguyên liệu sản xuất bia được nhập khẩu từ các quốc gia châu Âu, Australia và Mỹ. Bên cạnh đó, việc phối hợp chặt chẽ với các nhà cung ứng nguyên liệu, bao bì và sản xuất luôn được chú trọng nhằm đảm bảo nguồn nguyên liệu với chất lượng ổn định. Sử dụng hiệu quả công nghệ sản xuất hiện đại, thiết bị được nhập khẩu từ các hãng sản xuất hàng đầu châu Âu như Krones AG và KHS.
Bia Saigon được sinh ra tại Việt Nam, trưởng thành và lớn lên cùng đất nước Việt Nam. Đến nay, Bia Sài Gòn có 148 năm lịch sử hình thành và phát triển tại Việt Nam. Chúng tôi cam kết và tự hào trở thành bia Việt Nam có chất lượng tốt, đủ sức cạnh tranh toàn cầu.
Thứ hai là Best Sustainable Brewing. Chúng tôi phát triển song hành với mục tiêu tăng trưởng xanh của quốc gia. Trong quá trình thực hiện hoạt động sản xuất, kinh doanh, SABECO tuyệt đối tuân thủ luật pháp của Việt Nam, tuân thủ những quy định về môi trường, tuân thủ quy định về trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất để đảm bảo tất cả những hoạt động không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường xung quanh.
Thứ ba là The Best Talent. SABECO tự hào có 13.000 lao động là người Việt Nam. Chúng tôi có khoảng 4-6 lần lao động gián tiếp. Đây là những người lao động trong hệ sinh thái, đơn vị cung ứng dịch vụ cho SABECO. Trong quá trình phát triển, chúng tôi không chỉ đầu tư phát triển đội ngũ nhân viên của SABECO, mà còn đầu tư phát triển đội ngũ những tài năng trẻ của Việt Nam thông qua những chuỗi hoạt động cộng đồng mà chúng tôi cam kết thực hiện.
Thứ tư là The Best Community. Là nhà sản xuất, kinh doanh, chúng tôi ý thức được rằng, SABECO có thể phát triển bền vững được hay không là nhờ vào cộng đồng. Nếu SABECO muốn phát triển bền vững thì cộng đồng phải phát triển bền vững. Đó là lý do chúng tôi cam kết phát triển cộng đồng xung quanh chúng tôi cùng lớn mạnh”.
Hệ thống điện năng lượng mặt trời mái nhà tại Nhà máy Bia Sài Gòn Quảng Ngãi được lắp đặt từ giai đoạn 1
Mở rộng trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh
SABECO sớm triển khai giải pháp bao bì bền vững cho các dòng sản phẩm của mình, sử dụng vỏ lon mỏng hơn, trọng lượng nhẹ hơn để tiết kiệm nhiên liệu. Đồng thời, doanh nghiệp thực hiện chương trình tái chế két bia, kêu gọi các đối tác trong mạng lưới phân phối trên cả nước cùng tham gia, thúc đẩy trách nhiệm xử lý bao bì sau sử dụng của các bên trong quá trình sản xuất và kinh doanh.
Trước đó, SABECO vận dụng các sáng kiến tiết kiệm nước như thu hồi, tái sử dụng nước, áp dụng hệ thống CIP (cleaning in place) cải tiến để giảm lượng nước sử dụng, sử dụng bơm nhiệt để hạn chế xả nước trong thanh trùng.... Thành công trong việc giảm lượng nước sử dụng để sản xuất mỗi lít bia từ 5 lít (năm 2018) xuống còn dưới 3 lít (năm 2022).
Bắt đầu kế hoạch chuyển đổi từ năm 2018 đến nay, SABECO không chỉ thúc đẩy các sáng kiến xanh trong nội bộ doanh nghiệp, mà còn tăng cường hợp tác với các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội để triển khai nhiều chương trình phát triển bền vững trong cộng đồng, như lắp đèn năng lượng mặt trời tại các địa phương, góp phần nâng cao nhận thức về năng lượng tái tạo, bảo vệ môi trường.
Năm 2022, Dự án “Thắp sáng đường quê” do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp cùng SABECO đã hoàn thành 34 km đường đèn năng lượng mặt trời tại 34 vùng nông thôn thuộc 34 tỉnh, thành phố, chung tay gìn giữ môi trường bền vững và an toàn cho người dân địa phương an tâm sinh hoạt và lao động.
Với cam kết hướng đến mục tiêu nâng tầm vị thế thương hiệu Việt, góp phần dựng xây cộng đồng và đất nước Việt Nam thịnh vượng hơn, SABECO sẽ tiếp tục tăng cường các sáng kiến về tăng trưởng xanh, góp phần mạnh mẽ vào mục tiêu chung của quốc gia và từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhờ các giải pháp đồng bộ, vừa đảm bảo tăng trưởng dài hạn, vừa tiết giảm chi phí, đồng thời tăng sự hiện diện của thương hiệu tới người tiêu dùng, năm 2022 là năm tương đối thành công của SABECO. Cụ thể, SABECO ghi nhận doanh thu đạt 34.979,08 tỷ đồng, tăng 32,6%; lợi nhuận sau thuế đạt 5.499,8 tỷ đồng, tăng 40% so với thực hiện trong năm 2021. Biên lợi nhuận gộp cải thiện từ 28,8% lên 30,8%. Đây là mức lợi nhuận cao kỷ lục trong lịch sử của SABECO, bất chấp tác động từ việc các chi phí đầu vào tăng cao.