Thực trạng rác thải sinh hoạt ở Việt Nam đang là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Đặc biệt là ô nhiễm rác thải sinh hoạt ở Việt Nam đang là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn bổ sung thêm một số kiến thức về rác thải sinh hoạt là gì? Rác thải sinh hoạt gồm những gì? Quy định rác thải sinh hoạt?  Cách quản lý rác thải sinh hoạt để có thể áp dụng vào đời sống thường ngày. Tham khảo ngay nhé!

Tại sao phân loại rác lại quan trọng?

Phân loại rác giúp chúng ta tách biệt các loại rác thải dựa trên tính chất và đặc điểm của chúng, từ đó có thể tái chế hoặc xử lý chúng một cách hiệu quả. Khi rác thải được phân loại đúng cách, lượng rác được chuyển đến các bãi chôn lấp sẽ giảm đi đáng kể, giảm bớt áp lực lên các khu vực này và giảm thiểu nguy cơ ô nhiễm đất và nguồn nước.

Các quy định rác thải sinh hoạt hiện nay

Các quy định rác thải sinh hoạt hiện nay đang được triển khai nhằm mục đích bảo vệ môi trường và nâng cao ý thức của cộng đồng trong việc xử lý rác thải. Theo Nghị định 08/2022/NĐ-CP và Luật Bảo vệ Môi trường 2020, rác thải sinh hoạt phải được phân loại tại nguồn thành 3 nhóm chính: rác tái chế, rác hữu cơ và rác thải còn lại.

Quy định này giúp việc thu gom, tái chế và xử lý rác thải trở nên hiệu quả hơn, giảm thiểu lượng rác thải chôn lấp, đồng thời hạn chế ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, các hộ gia đình và tổ chức có trách nhiệm thu gom và đổ rác đúng nơi quy định, đóng phí vệ sinh môi trường theo khối lượng rác thải phát sinh.

Bên cạnh đó, đối với các hành vi vi phạm như đổ rác sai quy định, không phân loại rác tại nguồn, mức phạt có thể lên đến 15 triệu đồng theo Nghị định 45/2022/NĐ-CP. Những quy định này không chỉ góp phần bảo vệ môi trường sống, mà còn giúp xây dựng ý thức trách nhiệm và tạo ra thói quen tốt trong việc xử lý rác thải cho mỗi cá nhân và cộng đồng.

Chính vì vậy, việc nắm rõ và thực hiện đúng các quy định rác thải sinh hoạt là hành động thiết thực nhằm đảm bảo môi trường trong sạch, lành mạnh cho thế hệ hiện tại và tương lai.

Rác thải sinh hoạt gây ô nhiễm môi trường rất nhiều vì có nhiều hộ gia đình chưa có ý thức phân loại, đặc biệt là ở các đô thị lớn nơi có nhiều hộ gia đình ở nên lượng rác thải ngày càng tăng và việc phân loại rác thải đúng cách là bước đầu tiên và quan trọng nhất, giúp cho xử lý trở nên hiệu quả hơn. Vậy rác thải sinh hoạt bao gồm những gì và phân loại nó như thế nào?

Rác hữu cơ không chỉ giảm lượng rác thải ra môi trường mà còn có thể tái sử dụng một cách hiệu quả. Quá trình compost hóa chất thải hữu cơ tạo ra phân bón giàu dinh dưỡng, giúp cải thiện đất và hỗ trợ cho việc trồng trọt. Đây là một phương pháp tuyệt vời để tái chế và bảo vệ môi trường, đồng thời cung cấp một nguồn dinh dưỡng tự nhiên cho cây cối.

Nhóm này gồm các vật liệu như: giấy, kim loại, thủy tinh và nhựa, có thể tái chế để sản xuất ra các sản phẩm mới. Không chỉ giúp giảm thiểu lượng rác thải, tái chế còn góp phần tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên và giảm chi phí sản xuất.

Bao gồm các chất thải không thể tái chế như nhựa khó phân hủy, vật liệu xây dựng và các loại bao bì. Việc xử lý loại rác này cần được thực hiện cẩn thận để tránh ô nhiễm môi trường.

Chất thải này chứa các hóa chất độc hại có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và môi trường, như pin, sơn và thuốc trừ sâu. Cần phải được thu gom và xử lý đặc biệt để đảm bảo an toàn.

Phân loại rác thải sinh hoạt không chỉ là một hành động nhỏ trong cuộc sống hàng ngày mà còn là một bước tiến lớn hướng tới tương lai bền vững. Qua việc phân loại rác, chúng ta không chỉ giảm lượng chất thải đổ vào bãi rác mà còn tăng cường khả năng tái chế, từ đó giảm thiểu ô nhiễm và tiết kiệm được nguồn tài nguyên quý giá.

Sự gia tăng không ngừng của dân số và tiêu dùng, lượng rác thải sinh hoạt cũng theo đó mà tăng lên, đặt ra nhu cầu cấp thiết cho các giải pháp xử lý rác thải hiệu quả và bền vững. Trong đó, việc xử lý rác thải sinh hoạt tại gia đình đóng vai trò quan trọng, góp phần giảm tải lượng rác cần phải xử lý tập trung. Sau đây là một số phương pháp xử lý rác thải đang được áp dụng và những tiến bộ công nghệ có thể mang lại lợi ích cho môi trường và tương lai của chúng ta.

Đây là một phương pháp truyền thống. Đang dần được thay thế do những hậu quả môi trường nghiêm trọng mà nó gây ra. Việc chôn lấp không chỉ chiếm dụng diện tích đất quý giá mà còn tạo ra khí metan, một loại khí nhà kính mạnh, từ quá trình phân hủy rác hữu cơ. Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp mới để giảm thiểu tác động tiêu cực này.

Đốt rác bằng lò đốt hiện đại thì mặc dù đòi hỏi chi phí đầu tư ban đầu cao và thay thế việc đốt thủ công vì mang lại những ảnh hưởng xấu đến với môi trường và sức khỏe con người nhưng lại mang lại hai lợi ích đáng kể: giảm thiểu khối lượng rác thải và tạo ra năng lượng tái tạo. Các lò đốt hiện đại ngày càng được cải tiến để giảm thiểu ô nhiễm và tối ưu hóa việc thu hồi năng lượng.

Tái chế là một phương pháp không chỉ giúp giảm thiểu rác thải mà còn góp phần bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc tái chế các vật liệu như nhựa, thủy tinh và kim loại giúp tiết kiệm năng lượng và giảm nhu cầu khai thác mới. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế tuần hoàn, nơi mọi sản phẩm và vật liệu đều có giá trị tái sử dụng.

Ứng dụng công nghệ sinh học trong xử lý rác thải là một lĩnh vực đầy hứa hẹn, với việc sử dụng vi khuẩn và vi sinh vật để phân hủy rác thải một cách tự nhiên. Phương pháp này không chỉ giảm thiểu khối lượng rác thải mà còn tạo ra sản phẩm phụ có ích như phân bón hữu cơ, hỗ trợ cho nông nghiệp bền vững.

Xử lý rác thải sinh hoạt trong gia đình không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân mà còn là nền tảng cho một môi trường sống xanh, sạch, đẹp bằng cách phân loại rác ngay tại nguồn, chúng ta không những giảm thiểu gánh nặng cho các bãi rác và cơ sở xử lý mà còn tăng cường hiệu quả tái chế. Đây là hành động nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn, góp phần bảo vệ hành tinh của chúng ta và truyền cảm hứng cho cộng đồng hướng tới lối sống bền vững.

Thực trạng rác thải sinh hoạt ở Việt Nam

Một số bộ phận người Việt Nam chưa có ý thức đúng chuẩn mực về việc phân loại và xử lý rác thải. Vì vậy phải triển khai các chiến dịch giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của việc phân loại và tái chế rác thải.

Rác thải nhựa và nilon là một trong những vấn đề nghiêm trọng, với ước tính Việt Nam đang thải ra môi trường mỗi ngày có khoảng 60.000 tấn rác thải nhựa được xả ra môi trường trong đó là hết 60% là rác thải sinh hoạt ở đô thị.

Việt Nam hiện đứng thứ tư thế giới về lượng rác thải nhựa trên biển, sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines với phần lớn rác thải trôi ra từ 112 cửa biển của đất nước.

Phương pháp xử lý rác thải phổ biến nhất là chôn lấp và đốt thủ công và theo Bộ Tài Nguyên và Môi Trường thì khoảng 70% số lượng rác được xử lý bằng phương pháp chôn lấp nhưng tỉ lệ chỉ chiếm dưới 20% là được chôn lấp đúng quy trình và hợp vệ sinh.

Ngoài ra thì còn nhiều thành phố khác đều gặp khó khăn về việc xử lý rác thải như là Cần Thơ phải đốt hơn 400 tấn rác trong một ngày, điều này gây ảnh hưởng đến vấn đề khí thải. Lượng khí thải chiếm 5% tổng lượng rác thải xử lý và có các chất gây ung thư là furan và dioxin. Hải Phòng thì phải xử lý hơn 700 tấn hằng ngày và khu chôn lấp ở Tràng Cát và các nhà mấy phân compost lại không có hiệu quả.

Trên đây là toàn bộ thông tin về rác thải sinh hoạt là gì mà Pan Trading muốn gửi đến các bạn. Quản lý rác thải sinh hoạt một cách hiệu quả là bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mỗi hộ gia đình có thể đóng góp vào việc này bằng cách thực hiện các biện pháp đơn giản như sử dụng sản phẩm tái chế và giảm thiểu rác thải nhựa. Sự tham gia của cộng đồng và sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương sẽ làm tăng hiệu quả của quá trình quản lý rác thải, hướng tới một tương lai xanh và bền vững hơn.

Saritown, Khu đô thị Sala, 142 đường B2, Phường An Lợi Đông, Quận 2, TP. HCM

GÓC NHÌN: TIẾN RA BIỂN BẰNG CÁC ĐÔ THỊ BIỂN ĐỂ “MẠNH GIÀU TỪ BIỂN”

Hiện nay, Việt Nam đang thải ra môi trường khoảng 60.000 tấn rác sinh hoạt một ngày, trong đó khoảng 60% là rác thải sinh hoạt đô thị. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trên 70% lượng rác này được xử lý bằng phương pháp chôn lấp, trong đó chỉ có khoảng dưới 20% là được chôn lấp hợp vệ sinh. Lượng rác chôn lấp không hợp vệ sinh đang hàng ngày gây ô nhiễm cho môi trường đất, môi trường nước và không khí. Vấn đề này trở nên đặc biệt nghiêm trọng ở các thành phố lớn. Ngoài ra, trong số 30% được xử lý bằng phương pháp không chôn lấp thì cũng có đến 2/3 là được đốt tiêu hủy bằng các lò đốt rác thủ công, gây khói bụi ô nhiễm không khí.

Tại Hà Nội, lượng rác sinh hoạt đô thị phát sinh hàng ngày khoảng 7.000 tấn/ngày. Hiện bãi rác Nam Sơn đã quá tải và Hà Nội đã có một số nhà đầu tư đăng ký đầu tư khu xử lý rác thải ở Sóc Sơn, Nam Sơn và một số nơi khác nhưng mới chỉ có một Nhà máy đốt rác phát điện của Công ty Thiên Ý (Trung Quốc) đã chạy thử giai đoạn 1. Sau hơn một năm nhà máy vẫn chưa được nghiệm thu và vận hành chính thức.

Tại Tp.Hồ Chí Minh, mỗi ngày phát sinh khoảng 10.000 tấn rác thải sinh hoạt đô thị. Thành phố đã kêu gọi được nhiều nhà đầu tư xử lý rác thải hàng chục năm trước nhưng chủ yếu là dùng phương pháp chôn lấp. Hiện nay hầu hết các bãi rác này đã sắp quá tải và đang hàng ngày gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như bãi rác Đa Phước hay khu xử lý Tây Bắc thuộc huyện Củ Chi.

Ngoài ra, các thành phố lớn khác đều gặp khó khăn trong vấn đề quản lý và xử lý rác thải. Tại Cần Thơ đã có nhà máy đốt rác phát điện với công suất 400 tấn/ngày, nhưng đang gặp vấn đề về khí thải. Lượng khí thải chiếm tới 5% tổng lượng rác xử lý với nguy cơ chứa các chất gây ung thư như furan và dioxin, đang được thu gom nhưng kho chứa tro bụi đã quá tải mà chưa tìm được cách xử lý phù hợp. Tại Hải Phòng, lượng rác phát sinh vào khoảng 700-800 tấn/ngày. Một số khu xử lý như khu chôn lấp Tràng Cát hay nhà máy phân compost tỏ ra không hiệu quả. Hiện thành phố đang có kế hoạch kêu gọi các nhà đầu tư xử lý rác theo công nghệ hiện đại hơn.

Tại Đà Nẵng, rác thải đã trở nên vô cùng bức xúc nhiều năm nay nhưng vẫn chưa được cải thiện. Bãi rác Khánh Sơn với sức chứa 3 triệu tấn rác đã hết công suất, phải mở rộng nhiều lần nhưng vẫn có nguy cơ quá tải với lượng rác phát sinh hiện nay khoảng 1.100 tấn/ngày, tương đương hơn 400.000 tấn/năm. Khu vực gần bãi rác Khánh Sơn đang bốc mùi hôi thối và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, gây bức xúc cho người dân. Dự án xử lý rác thải sinh hoạt công suất 600 tấn/ngày đã được cấp giấy phép đầu tư hơn 10 năm trước nhưng cho đến nay vẫn không tiến triển gì ngoài việc xây hàng rào giữ đất.

Bãi rác Khánh Sơn hiện đã quá tải nhưng hai nhà máy xử lý rác vẫn chưa biết khi nào mới hoạt động. Ảnh: Nguyễn Linh

Một số nơi khác cũng đã đầu tư hoặc đang bắt đầu đầu tư các khu xử lý rác với công suất nhỏ lẻ và nhìn chung là thiếu hiệu quả. Có thể tạm chia ra năm phương pháp xử lý rác đang được áp dụng ở Việt Nam hiện nay là: (1) chôn lấp, (2) sản xuất phân compost, (3) đốt thiêu hủy bằng các lò thủ công, (4) đốt rác phát điện và (5) biogas. Hiện nay hai phương pháp phổ biến nhất mà Việt Nam sử dụng chủ yếu là chôn lấp và đốt thủ công đã bị cấm hoặc không được khuyến khích áp dụng.

Các khó khăn về tài chính cũng như các chính sách đầu tư về lĩnh vực này cũng là rào cản đáng kể, cần phải được tháo gỡ. Theo Nghị Quyết 16/QH15 thì đến 2025, 90% rác thải sinh hoạt phải được xử lý hợp vệ sinh. Các báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm thì tiêu chí này đều đạt và vượt các chỉ tiêu Quốc hội giao nhưng con số thực tế lại khác xa khá nhiều như số liệu do Bộ Tài Nguyên và Môi trường cung cấp đã đề cập ở phần đầu bài viết.

Văn bản pháp lý đầu tiên phải kể đến là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2022; trong đó Mục 2, Chương VI, từ Điều 75 đến Điều 80 quy định về thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Chính phủ ban hành Nghị định 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022, hướng dẫn triển khai Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, sau đó Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư số 02/2022/TT- BTNMT ngày 10/01/2022 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 450/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 13/4/2022, theo đó xây dựng thực hiện Đề án trọng điểm về tăng cường năng lực quản lý Chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại Việt Nam và xác định lộ trình đến năm 2025 giảm “Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được xử lý bằng công nghệ chôn lấp trực tiếp trên tổng lượng chất thải được thu gom” xuống 30%.

Ngoài ra, còn một số văn bản pháp luật sau đây liên quan đến xử lý rác thải sinh hoạt:

- QCVN 61-MT:2016/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về Lò đốt CTRSH theo hướng quy định nghiêm ngặt hơn, bảo đảm kiểm soát được các chất ô nhiễm phát sinh trong quá trình xử lý, bảo vệ sức khỏe Nhân dân (theo nguyên tắc quy định tại Điều 99 của Luật BVMT).

- TCXDVN 261-2001: Bãi chôn lấp chất thải rắn - Tiêu chuẩn thiết kế;

- Thông tư số 07/2017/TT-BXD ngày 15/5/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn phương pháp định giá dịch vụ xử lý CTRSH;

- Thông tư số 14/2017/TT-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định và quản lý chi phí dịch vụ công ích đô thị;

- Quyết định số 1354/QĐ-BXD ngày 28/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng công bố suất vốn đầu tư xây dựng và mức chi phí xử lý CTRSH;

- Quyết định số 592/QĐ-BXD ngày 30/5/2014  Bộ trưởng Bộ Xây dựng công bố định mức dự toán thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đô thị;

- Nghị định 45/2022/NĐ-CP ngày 07/7/2022, quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

- Quyết định số 2149/QĐ-TTG ngày 17/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chiến lược quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050.

Ngoài ra, còn một số luật khác liên quan đến việc tuyển chọn nhà đầu tư xử lý rác thải tại địa phương như Luật Đấu thầu, Luật Đất đai và Luật đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) sẽ được đề cập đến phần sau của bài viết này.

Công nghệ đốt rác thủ công (thiêu hủy rác không phát điện) đã được sử dụng ở một số nơi gây ô nhiễm không khí trầm trọng và đã bị cấm do không đạt Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia QCVN 61-MT:2016/BTNMT về lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, theo đó lò đốt rác phải đảm bảo 2 buồng và lò đốt phải đạt 950 độ C, thời gian lưu trữ tối thiểu là 2 giây. Tuy nhiên, quy chuẩn này lại không phù hợp với các loại công nghệ đốt rác phát điện tiên tiến trên thế giới.

Lò đốt rác phải đảm bảo 2 buồng và lò đốt phải đạt 950 độ C, thời gian lưu trữ tối thiểu là 2 giây. (Ảnh minh họa: Lò đốt rác thải sinh hoạt sinh hoạt BD-Anpha)

Ngoài ra, có một số công nghệ khác đang được áp dụng tại Việt Nam hiện nay như sau:

1. Khác với các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh (dumping sites) đã được đề cập ở phần đầu bài viết, công nghệ Chôn lấp hợp vệ sinh (landfill) là một phương pháp kiểm soát sự phân hủy của các chất rắn khi chúng được chôn nén và phủ lấp bề mặt. Chất thải rắn trong bãi chôn lấp sẽ bị tan rữa nhờ quá trình phân hủy sinh học bên trong để tạo ra sản phẩm cuối cùng là các chất giàu dinh dưỡng như axit hữu cơ, nitơ, các hợp chất amon và một số khí như CO2, CH4. Nước rỉ rác sẽ được thu gom và chuyển đến khu xử lý sinh hóa. Tuy nhiên, với quá trình đô thị hóa, kết hợp lượng rác thải sinh hoạt từ vật liệu nhựa, nilon... đã gây quá tải cho quỹ đất sử dụng cho bãi rác chôn lấp. Cần có những biện pháp khác thay thế cho phương pháp chôn lấp chất thải giúp bảo vệ môi trường. Hiện nay, các nước tiên tiến trên thế giới không còn áp dụng phương pháp này. Luật Bảo vệ môi trường 2020, tại Điều 78, Khoản 4 cũng đề cập hạn chế sử dụng công nghệ này.

2. Công nghệ đốt phát điện cũng đã được thực hiện thử nghiệm tại một số nơi như tại Cần Thơ và mới đây là Hà Nội. Do rác thải sinh hoạt của Việt Nam có nhiệt trị rất thấp (chỉ khoảng 5 MJ/kg so với 15 MJ/kg rác sinh họat ở châu Âu), độ ẩm cao (65-70%) nên lượng điện tạo ra trong quá trình sinh nhiệt là rất thấp, hiệu quả kinh tế vì thế không cao so với chi phí đầu tư. Việc đưa nhiệt độ buồng đốt lên 1.400 độ C để khử hết furan và dioxin là khá tốn kém và hầu như là không thể trong điều kiện thông thường, nếu không dùng các buồng đốt đặc biệt. Còn dùng màng lọc than hoạt tính thì khá đắt tiền, chi phí vận hành cao và phụ thuộc nhiều vào yếu tố con người. Đây cũng là lý do khi quan sát thấy khí thải của các buồng đốt hiện nay có nhiều màu đen là biểu hiện của các độc chất trong rác như furan hay dioxin và các tạp chất khác chưa được đốt hết. Công nghệ này đang đặt ra dấu hỏi lớn về ô nhiễm không khí mà chưa được kiểm soát chặt chẽ.

Để giải quyết bài toán “nhiệt trị thấp” một số nhà máy phải áp dụng bằng cách trộn thêm phụ gia như vỏ dừa hay trấu hoặc trộn theo tỷ lệ 500 tấn rác sinh hoạt phải có thêm 100 tấn rác công nghiệp để sinh nhiệt, nhưng khi đó sẽ làm phát sinh chi phí thu mua phụ gia và lựa chọn rác công nghiệp để tránh gây ô nhiễm. Cách vận hành này tiêu biểu là Nhà máy xử lý rác Thăng Long sẽ được vận hành ở Bắc Ninh trong thời gian tới.

Có một số công nghệ tương tự như lò đốt Plasma, có thể đốt rác lên tới 4.000 độ C, nhưng khá tốn kém và mới chỉ áp dụng ở quy mô nhỏ như trong phòng thí nghiệm mà chưa được thương mại hóa, áp dụng đại trà.

3. Công nghệ thứ ba phổ biến hơn, đó là chế biến phân compost, phân vi sinh. Công nghệ này cũng gặp khó khi công đoạn phân loại rác chưa triệt để, dễ lẫn kim loại nặng trong phân vi sinh và nó chỉ phù hợp cho bón cây công nghiệp. Nếu bón cho cây nông nghiệp hoặc hoa màu có thể làm chết cây và gây ô nhiễm môi trường đất. Phân bón sản xuất ra khó tìm nơi tiêu thụ. Hiện một số nhà máy áp dụng công nghệ này tỏ ra không hiệu quả như ở Hải Phòng, Bình Dương và Đồng Nai.

4. Công nghệ biogas là phương pháp ủ vi sinh, tạo khí Metan NH4 rồi nung lò hơi phát điện. Công nghệ này khá sạch, phù hợp với loại rác hữu cơ. Tuy nhiên do rác thải sinh hoạt của Việt Nam chưa được phân loại, lẫn nhiều ni lông và các chất vô cơ nên khả năng tạo khí khá thấp. Một nhà máy sử dụng công nghệ này đã phải dừng hoạt động tại Quảng Bình.

5. Một công nghệ nữa, khá mới, chưa được áp dụng ở Việt Nam nhưng đã áp dụng ở một số nước Đông Nam Á là kết hợp biogas với sản xuất viên nén RDF thu hồi năng lượng. Biogas có thể sản xuất ra lượng điện tự dùng để sấy khô rác, một phần phát lên lưới, còn sản phẩm chính của quy trình công nghệ này là các viên RDF được cung cấp làm nguyên liệu đầu vào thay thế cho nguyên liệu than đá tại các cơ sở công nghiệp sử dụng lò đốt, như các nhà máy xi măng, nhà máy luyện kim v.v...

Công nghệ hỗn hợp Maximum Yield Technology (MYT) là loại công nghệ của Đức dựa theo nguyên tắc trên, khá thân thiện môi trường và chi phí đầu tư rẻ hơn công nghệ đốt rác phát điện hiện nay. MYT là công nghệ được cấp bằng sáng chế có thể sản xuất RDF (Refuse Derived Fuel) từ chất hữu cơ một cách hiệu quả. Rác trước khi xử lý được phân loại bằng dây chuyền tự động, sau đó rác có nhiệt trị cao được sấy khô và tạo viên nén RDF. Tại một số quốc gia như Phần Lan, Đức, Ý đã phát triển các tiêu chí chất lượng cho RDF, nhằm giúp đánh giá chất lượng RDF dễ dàng hơn và hiện nay RDF đang dần  thay thế hấp dẫn cho nhiên liệu hóa thạch. Nhược điểm của công nghệ này là chỉ phù hợp với nơi có rác thải phát sinh ít nhất 500 tấn/ngày trở lên vì chi phí đầu tư và vận hành lớn hơn so với công nghệ biogas hay phân compost.

Hiện nay, Công ty cổ phần Halcom Việt Nam đã gần hoàn tất thủ tục mua bản quyền công nghệ MYT từ Euwelle Environmental Technology GmbH, CHLB Đức để sẵn sàng cho việc áp dụng xử lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam.

Như đã nói ở trên, do đặc điểm rác sinh hoạt ở Việt Nam khác xa với rác thải ở các nước châu Âu và các nước tiến tiến khác, đó là rác thải ở ta có độ ẩm cao, hàm lượng chất hữu cơ lớn, không được phân loại tại nguồn, hạ tầng vận chuyển không đồng bộ; trong khi rác ở các nước phát triển lại có độ ẩm thấp do khí hậu khô, được phân loại từ nguồn, quản lý vận chuyển đúng cách. Vì thế, nếu áp dụng nguyên mẫu công nghệ đốt rác phát điện của các nước Âu – Mỹ hay Nhật vào Việt Nam sẽ không hiệu quả như đã nói ở phần Công nghệ trên đây, xét cả về tài chính và kỹ thuật.

Hiện nay, các địa phương khá lúng túng trong việc tìm công nghệ tiên tiến phù hợp với rác thải Việt Nam, dẫn đến không thu hút được đầu tư vì các nhà máy không đứng vững được về tài chính và kỹ thuật. Khả năng tiếp cận thông tin, tìm kiếm công nghệ của các nhà đầu tư trong nước còn nhiều hạn chế. Khi công nghệ không phù hợp thì không xử lý triệt để rác thải, gây ô nhiễm và sản xuất được ít điện hoặc ít các loại sản phẩm khác sau xử lý. Công nghệ tiên tiến thì tốn kém, có thể phù hợp với rác của châu Âu có đặc điểm khô và đã được phân loại nhưng khi áp dụng tại Việt Nam lại gây ô nhiễm và tạo ra ít doanh thu.

Như vậy, doanh nghiệp muốn đầu tư xử lý rác cần đảm bảo hai yếu tố: Thứ nhất là bền vững về công nghệ, tiếp cận công nghệ tiên tiến để xử lý rác không gây ô nhiễm; thứ hai là bền vững về tài chính, công nghệ phải tạo ra nhiều sản phẩm tốt, có thể bán trên thị trường để tạo ra doanh thu đủ lớn, bù đắp cho chi phí vốn vay và vận hành, bảo dưỡng. Doanh thu của một nhà máy xử lý rác gồm có 2 nguồn cần được đảm bảo, một là nguồn thu từ phí xử lý rác hiện đang ở mức 20-21 đô la Mỹ/tấn rác đầu vào, và hai là nguồn thu từ sản phẩm sau xử lý rác, đó có thể là điện, gas, viên nhiệt trị RDF, phân vi sinh, chưa kể các loại vật liệu có thể tái chế khác như sắt, thép, thủy tinh và vật liệu xây dựng…

Mặt bằng để bố trí khu xử lý cũng gặp khó khăn do vướng các rào cản pháp lý hiện nay. Theo Luật Bảo vệ môi trường thì xử lý rác cần được ưu tiên và các chủ đầu tư được bàn giao đất sạch để xây dựng nhà máy nhưng theo Luật Đất đai thì khi sử dụng đất phải qua quy trình đấu giá đất. Luật Đấu thầu áp dụng cho trường hợp này cũng khó khả thi vì phải trả lời câu hỏi đấu thầu sử dụng đất trước hay đấu thầu lựa chọn công nghệ trước? Một số địa phương tổ chức đấu thầu lựa chọn được nhà đầu tư có tiềm lực tài chính, có thể thắng thầu sử dụng đất nhưng lại không thông thạo về công nghệ và quản lý vận hành xử lý rác. Những nhà đầu tư có công nghệ tốt lại không thể tham gia đấu thầu sử dụng đất do các điều kiện đấu giá đất, diện tích sử dụng đất hay vị trí lại không phù hợp với yêu cầu của nhà đầu tư. Hiện nay các Bộ, Ngành trung ương cũng chưa có hướng dẫn cụ thể cho các địa phương về quy trình tuyển chọn nhà đầu tư xử lý rác thải sinh hoạt, gây lúng túng cho địa phương. Nếu đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư có công nghệ tốt thì có thể vi phạm pháp luật.

Tại phiên giải trình chất thải rắn sinh hoạt năm 2022, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội đã đưa ra khuyến cáo trong năm 2023 Bộ Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp với các cơ quan hữu quan để đưa ra quy trình tuyển chọn nhà đầu tư cũng như các chính sách khuyến khích đầu tư cho các địa phương nhưng đến nay hướng dẫn này vẫn chưa được ban hành. Đây là bước đầu tiên cần phải thực hiện để tháo gỡ khó khăn cho các địa phương trong việc tuyển chọn nhà đầu tư phù hợp có thể xử lý rác thải tại địa phương mình, đáp ứng điều kiện cụ thể về lượng rác phát sinh, khả năng chi trả của địa phương cũng như thành phần của rác, được phân loại hay không phân loại tại nguồn.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị các Bộ ngành, địa phương cần có thêm báo cáo về phản ánh, ý kiến của cử tri, dư luận xã hội trong việc xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Vấn đề thứ hai là chuẩn bị quỹ đất để xây dựng khu xử lý. Thông thường, với các công nghệ tiên tiến thì không cần nhiều quỹ đất, thí dụ với công nghệ MYT, để xử lý 1.000 tấn/ngày chỉ cần diện tích đất khoảng 5-6 ha cho khu xử lý, thay vì 20-30 ha như một số địa phương hiện đang làm, nhưng nhà đầu tư cần phải được bàn giao đất sạch một cách nhanh chóng, thuận tiện để chỉ tập trung đầu tư, xây dựng thì mới có thể nhanh chóng xử lý vấn đề môi trường

Các địa phương cũng cần nghiên cứu, lựa chọn loại công nghệ phù hợp với địa phương của mình trước khi tổ chức đấu thầu. Có như thế thì các tiêu chí lựa chọn công nghệ mới tập trung, tránh dàn trải để thu hút sự quan tâm của những nhà đầu tư có công nghệ phù hợp với các tiêu chí về công nghệ, kinh tế, xã hội và môi trường. Việc đấu thầu phải được tiến hành công khai, minh bạch. Các địa phương cần cam kết đảm bảo nguồn rác đầu vào ổn định với lượng rác tối thiểu theo yêu cầu để nhà đầu tư có thể yên tâm về nguồn nguyên liệu đầu vào với các chi phí hợp lý.

Cần khuyến khích các doanh nghiệp trong nước có trình độ, kiến thức về xử lý rác, có bản quyền sở hữu công nghệ, có khả năng liên danh liên kết với công ty nước ngoài, đảm bảo về vốn và khả năng cung cấp thiết bị cũng như vận hành chuyển giao. Có thể cần thí điểm chỉ định nhà đầu tư làm thí điểm ở một địa phương với quy mô xử lý từ 1.000-2.000 tấn/ngày, sau đó nhân rộng ra các địa phương khác. Đây là hướng đi đúng trong việc giải quyết vấn nạn rác thải sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay. Đột phá lớn cần có quyết tâm chính trị lớn ở cả Trung ương và địa phương, góp phần bảo vệ môi trường, xây dựng một nền kinh tế xanh và phát triển bền vững theo đúng tinh thần Nghị quyết số 24-NQ/TW Khóa XI đã đề ra./.

Uỷ viên Uỷ ban Khoa học công nghệ và Môi trường Quốc hội

Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Dương, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam

Tác hại của rác thải sinh hoạt đến môi trường

Theo số liệu thống kê, bình quân mỗi năm cả nước phát sinh thêm khoảng 25.000 tấn rác thải sinh hoạt, tổng lượng rác thải sinh hoạt phát sinh từ các đô thị có xu hướng tăng trung bình từ 10% - 16%. Trong đó, tỷ lệ thu gom rác thải tại các đô thị bình quân trên cả nước chỉ đạt khoảng 70% - 85%.

Hiện nay, trên toàn quốc lượng chất thải sinh hoạt ở các khu đô thị phát sinh 38.000 tấn mỗi ngày, tỷ lệ thu gom, xử lý hơn 85%. Con số này ở nông thôn là 32.000 tấn mỗi ngày và chỉ thu gom được khoảng 55%.

Rác thải sinh hoạt có ảnh hưởng tới nhiều mặt của môi trường, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay. Cụ thể:

- Rác thải sinh hoạt ảnh hưởng rất lớn đến cả nguồn nước mặt và nước ngầm. Rác có thể do người dân đổ trực tiếp hoặc bị cuốn trôi theo nước mưa xuống sông, ao hồ, cống rãnh… Lượng rác này sau khi bị phân huỷ sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng nước mặt, nước ngầm trong khu vực, làm ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm, gây ra các bệnh nguy hiểm.

- Trong thành phần rác thải có chứa nhiều chất độc, khi rác thải được đưa vào môi trường và không được xử lý khoa học thì những chất độc xâm nhập vào đất sẽ tiêu diệt nhiều loài sinh vật có ích cho đất, làm cho môi trường đất bị giảm tính đa dạng sinh học và phát sinh nhiều sâu bọ phá hoại cây trồng. Đặc biệt, hiện nay, việc sử dụng tràn lan các loại túi nilon trong sinh hoạt hằng ngày, mà các túi nilon này cần 50 - 60 năm mới phân hủy trong đất. Do đó, chúng tạo thành các bức tường ngăn cách trong đất, hạn chế quá trình phân hủy, tổng hợp các chất dinh dưỡng, làm cho đất giảm độ phì nhiêu, đất bị chua và năng suất cây trồng giảm sút.

- Rác thải sinh hoạt vứt bừa bãi, chất đống lộn xộn, không thu gom, vận chuyển đến nơi xử lý,… để lại những hình ảnh không đẹp, gây mất mỹ quan.

- Trong rác thải sinh hoạt, thường hàm lượng hữu cơ chiếm tỷ lệ lớn. Các loại rác hữu cơ dễ phân huỷ gây hôi thối, phát triển vi khuẩn gây hại làm ô nhiễm, mất vệ sinh môi trường và ảnh hưởng tới sức khỏe. Khu tập trung rác là nơi thu hút, phát sinh và phát triển chuột, ruồi, muỗi, gián, các loại vi trùng gây nhiều chứng bệnh truyền nhiễm cho con người, vật nuôi trong gia đình. Rác thải không được thu gom, tồn đọng trong không khí, lâu ngày sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của những người sống xung quanh… Đặc biệt, các bãi rác công cộng là nguồn mang dịch bệnh.

Để bảo vệ sức khỏe của bản thân, cộng đồng cũng như làm cho môi trường sống không bị ô nhiễm bởi rác thải, mỗi người dân hãy nêu cao ý thức bảo vệ môi trường từ những hành động nhỏ hằng ngày.

Thực trạng thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt

Phương pháp xử lý rác thải chính hiện nay của nước ta là chôn lấp, với kỹ thuật đơn giản. Thực tế cho thấy, các phương pháp xử lý rác thải tại nước ngoài áp dụng cho nước ta đều không hiệu quả do đặc thù rác thải chưa được phân loại tại nguồn. Hiện nay, lượng rác ở đô thị được đưa đến bãi chôn lấp tập trung chỉ chiếm 60% - 65% , lượng rác còn lại được vứt ở ao hồ, kênh rạch, ven đường.

Thực tế, tình hình quản lý rác thải sinh hoạt có nhiều bước tiến, tuy nhiên vẫn không đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn của rác thải sinh hoạt.

Cả nước hiện có gần 100 bãi chôn lấp rác thải sinh hoạt, tuy nhiên chỉ có 20 bãi chôn lấp hợp vệ sinh. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh có thể gây ra ô nhiễm môi trường đất, không khí và đặc biệt là nước thải rỉ rác từ các bãi chôn lấp. Trong khi ở các nước tiên tiến, với công nghệ kỹ thuật hiện đại, họ xử lý rác thải sinh hoạt bằng cách ủ phân compost, không chỉ giải quyết được vấn đề rác thải mà còn đem lại lợi ích kinh tế. Hiện  nay, việc khống chế mùi hôi tại các bãi chôn lấp được thực hiện bằng việc phun các chế phẩm sinh học và được thực hiện thủ công, điều này có thể gây độc hại cho công nhân.

Ở nước ta, phương pháp đốt thường được ứng dụng trong xử lý rác thải nguy hại, chủ yếu là chất thải y tế. Rác thải sinh hoạt thường chứa độ ẩm cao do đó phương pháp đốt không hiệu quả. Mặt khác, việc đầu tư một lò đốt công nghiệp thường yêu cầu kinh phí khá lớn. Công nghệ đốt nếu vận hành không đúng kỹ thuật sẽ sinh ra các chất làm ô nhiễm không khí, do đó cũng cần có hệ thống xử lý khí thải khi áp dụng phương pháp đột.

Phương pháp dùng rác thải sinh hoạt để sản xuất phân hữu cơ không phổ biến và chỉ giải quyết được một lượng nhỏ rác thải sinh hoạt. Việc đầu tư dây chuyền công nghệ để sản xuất phân hữu cơ cũng khá tốn kém. Mặt khác, việc sử dụng phân hữu cơ trong nông nghiệp chưa được phổ biến rộng rãi, vì thế nguồn cung không lớn. Nếu phân hữu cơ không có ưu điểm vượt trội thì rất khó cạnh tranh với các loại phân bón truyền thống.

Trước tình hình này, vấn đề lựa chọn công nghệ xử lý rác thải phù hợp là một nhiệm vụ quan trọng đối với các nhà khoa học, các cấp chính quyền. Làm thế nào để lựa chọn được phương pháp xử lý phù hợp với tính chất rác thải cũng như điều kiện kinh tế nước ta đang là một câu hỏi khó./.